Gấu đen Mỹ (danh pháp hai phần: Ursus americanus) là một loài gấu kích thước trung bình có nguồn gốc ở Bắc Mỹ. Nó là loài gấu nhỏ nhất và phổ biến nhất của châu lục này. Gấu đen Mỹ là loài ăn tạp với chế độ ăn khác nhau đáng kể tùy thuộc vào mùa và vị trí sinh sống. Chúng thường sống ở khu vực chủ yếu là rừng, nhưng lại rời khỏi rừng để tìm kiếm thức ăn. Đôi khi chúng xâm nhập vào các cộng đồng dân cư vì sự sẵn có thức ăn cho chúng. Gấu đen Mỹ thường đánh dấu trên các cây bằng cách sử dụng răng và móng vuốt của chúng như là một hình thức giao tiếp với những con gấu khác, một hành vi phổ biến của nhiều loài gấu
PHÂN LOẠI VÀ NGUỒN GỐC
Gấu đen Mỹ là loài gấu phổ biến nhất trên thế giới. Nó được liệt kê như là loài ít quan tâm trong danh mục của IUCN, do sự phổ biến rộng rãi của nó và số lượng toàn cầu lớn với ước tính gấp đôi so với tổng số tất cả các loài gấu khác cộng lại. Cùng với gấu nâu, nó là một trong hai loài duy nhất trong số tám loài gấu hiện đại được xem như là không bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu theo đánh giá của IUCN. Ngày nay, số lượng gấu đen ở châu Mỹ được ước tính vào khoảng 850.000 đến 950.000 cá thể.
Mặc dù sống ở Bắc Mỹ, gấu đen Mỹ không có quan hệ gần gũi với gấu nâu và Gấu trắng Bắc Cực; nghiên cứu di truyền cho thấy chúng tách ra từ một tổ tiên chung khoảng 5,05 triệu năm trước. Các loài gấu đen Mỹ và gấu đen châu Á (gấu ngựa) được coi là các loài chị em, và có quan hệ gần gũi với nhau hơn so với các loài gấu khác.. Gấu chó cũng được tách ra từ nhánh này tương đối gần đây.
Tổ tiên của gấu đen Mỹ và gấu ngựa tách ra khỏi loài gấu chó từ khoảng 4,58 Ma. Gấu đen Mỹ sau đó tách ra khỏi gấu ngựa khoảng 4,08 Ma. Các hóa thạch gấu đen Mỹ sớm nhất, nằm tại Cảng Kennedy, bang Pennsylvania, rất giống với loài gấu ngựa, mặc dù các mẫu vật muộn hơn đã có kích thước tăng lên tương đương với gấu xám Bắc Mỹ. Từ thế Holocen đến nay, gấu đen Mỹ dường như đã bị thu hẹp về kích thước, nhưng điều này đã gây tranh cãi vì những vấn đề với niên đại của những mẫu hóa thạch này.
Gấu đen Mỹ đã sống cùng một thời kỳ với gấu mặt ngắn (Arctodus simus và A. pristinus) và gấu đeo kính Florida (Tremarctos floridanus). Những con gấu này đã tiến hóa từ những con gấu di cư từ châu Á đến Bắc Mỹ các đây khoảng 7-8 Ma. Gấu mặt ngắn được cho là loài ăn thịt nhiều hơn và gấu đeo kính Florida ăn thực vật nhiều hơn, trong khi những con gấu đen Mỹ là động vật ăn tạp sống trên cây, giống như tổ tiên của châu Á của chúng. Lối sống của gấu đen cho phép nó khai thác các loại thực phẩm đa dạng hơn và được xem như là một lý do tại sao, chỉ một mình nó trong số 3 chi này sống sót mặc dù sự thay đổi khí hậu và hệ thực vật trong suốt thời kỳ băng hà cuối cùng, khi mà những loài săn mồi khác, chuyên biệt hơn ở Bắc Mỹ bị tuyệt chủng. Tuy nhiên, cả hai chi Arctodus và Tremarctos đã sống sót qua nhiều thời kỳ băng hà khác. Sau đó những loài gấu tiền sử này đã bị tuyệt chủng trong thời kỳ băng hà cuối cùng cách đây 10.000 năm, và gấu đen Mỹ có lẽ là loài gấu duy nhất có mặt ở Bắc Mỹ cho đến khi có sự xuất hiện của gấu nâu ở phần còn lại của châu lục này.
Có tất cả 16 phân loài của gấu đen được công nhận theo liệt kê dưới đây
Gấu đen Mỹ hiện đang sinh sống nhiều ở Canada. Chúng bị tuyệt chủng tại đảo Hoàng tử Edward Island kể từ năm 1937. Tổng dân số của gấu Canada là từ 396.000 đến 476.000, dựa trên các cuộc khảo sát được thực hiện trong những năm 1990 tại bảy tỉnh của Canada, mặc dù ước tính này không bao gồm các quần thể gấu đen Mỹ ở New Brunswick, vùng lãnh thổ Tây Bắc, Nova Scotia, và Saskatchewan. Số lượng của gấu đen tại tất cả các tỉnh ổn định trong suốt thập kỷ qua.
Phạm vi hiện tại của gấu đen Mỹ tại Hoa Kỳ là không đổi trong suốt hầu hết vùng đông bắc (từ dưới dãy núi Appalachian gần như liên tục đến Virginia và Tây Virginia), phía bắc vùng trung tây, khu vực núi Rocky, bờ biển phía tây và Alaska. Tuy nhiên phân bố của chúng ngày càng bị chia nhỏ hoặc vắng mặt trong các khu vực khác. Mặc dù vậy, gấu đen Mỹ ở những khu vực dường như đã mở rộng phạm vi phân bố của chúng trong thập kỷ qua, chẳng hạn như mới thấy gần đây ở Ohio, mặc dù chúng có thể chưa đại diện cho các quần thể sinh sống ổn định. Khảo sát thực hiện từ 35 bang trong những năm 1990 cho thấy quần thể gấu đen là ổn định hoặc tăng, ngoại trừ ở Idaho và New Mexico. Toàn bộ số lượng gấu đen ở Hoa Kỳ được ước tính dao động từ 339.000 đến 465.000,[17] mặc dù không tính đến các quần thể ở Alaska, Idaho, Nam Dakota, Texas, và Wyoming, mà số lượng quần thể chưa được biết.
Trong toàn bộ phạm vi phân bố, môi trường sống ưa thích của gấu đen Mỹ có một vài đặc điểm chung. Chúng thường được tìm thấy trong các khu vực có địa hình tương đối khó tiếp cận, thực vật dưới tán dày và một số lượng lớn các vật liệu ăn được (đặc biệt là quả sồi). Sự thích nghi với rừng và thảm thực vật dày của loài này có thể ban đầu là do gấu đen đã phát triển cùng với các loài gấu lớn hơn, hung dữ hơn, chẳng hạn như loài gấu mặt ngắn đã tuyệt chủng và gấu xám Bắc Mỹ vẫn còn tồn tại, mà chúng chiếm giữ môi trường sống thoáng hơn[19] và sự hiện diện của các loài động vật ăn thịt tiền sử lớn hơn như Smilodon và sư tử Bắc Mỹmà chúng có thể đã săn đuổi gấu đen.
Mặc dù đa phần sống ở khu vực hoang dã, vắng vẻ và khu vực nông thôn, gấu đen Mỹ có thể thích ứng để sống sót ở một số lượng nào đó ở các vùng ven đô, miễn là ở đó có thực phẩm dễ kiếm và một số khu vực cây cối bao phủ.[6] Trong hầu hết các vùng biên giới Hoa Kỳ, gấu đen ngày nay thường được tìm thấy ở các khu vực miền núi rất nhiều thảm thực vật, ở độ cao từ 400 đến 3.000. Đối với những con gấu sống ở vùng Tây Nam Mỹ và Mexico, môi trường sống thường gồm các vùng cây thông bách và cây bụi. Trong khu vực này, đôi khi các con gấu di chuyển đến các khu vực thoáng hơn để ăn các cây xương rồng lê gai. Có ít nhất hai loại môi trường sống chính khác biệt mà chúng sinh sống trong khu vực Đông Nam Hoa Kỳ. Gấu đen ở dãy núi Appalachian miền nam tồn tại chủ yếu là trong các khu rừng sồi và rừng hỗn hợp. Tại các khu vực ven biển phía đông nam (chẳng hạn như tiểu bang Louisiana hoặc Florida), các con gấu sống trong các hỗn hợp đồng cỏ cây lá kim, vịnh ven biển, và khu vực gỗ cứng đầm lầy. Trong khu vực phân bố phía đông bắc (Hoa Kỳ và Canada), môi trường sống chính bao gồm các tán rừng gỗ cứng như sồi, phong, và bạch dương, và các loài cây lá kim. Cây ngô và quả sồi cũng là những nguồn thực phẩm phổ biến của chúng trong một số vùng phía đông bắc; khu vực đầm lầy nhỏ, rậm rạp cung cấp cho chúng nơi trú ẩn tuyệt vời phủ kín hầu khắp các vùng cây tuyết tùng trắng. Dọc theo bờ biển Thái Bình Dương, cây gỗ đỏ, vân sam, và sam chiếm ưu thế như là các khu bảo tồn lâu dài. Ngoài các loại rừng phía bắc này khu vực quan trọng kế tiếp đối với gấu đen là các khu vực cây bụi, đồng cỏ ẩm và khô, vùng thủy triều cao, khu vực ven sông và một loạt các bãi cây thân gỗ. Rừng vân sam, linh sam chiếm ưu thế trong nhiều khu vực phân bố của gấu đen trong vùng Rockies. Khu vực không phủ rừng quan trọng ở đây là đồng cỏ ẩm ướt, khu vực ven sông, vách núi tuyết lở, lề đường, các dòng suối, công viên ven đồi, và vùng núi tương đối cao. Ở những khu vực nơi con người tác động tương đối ít, chẳng hạn như vùng kéo dài của Canada và Alaska, gấu đen Mỹ có xu hướng được tìm thấy thường xuyên hơn ở các vùng đất thấp.[19] Trong khu vực đông bắc Canada, đặc biệt là Labrador, gấu đen đã thích nghi với các khu vực bán thưa thớt, là môi trường sống điển hình của gấu nâu ở Bắc Mỹ (có thể là do ở đây không có gấu nâu và gấu trắng Bắc Cực cũng như các loài động vật ăn thịt lớn khác)
ĐẶC ĐIỂM CƠ THỂ
Hộp sọ của gấu đen Mỹ rất rộng, với cái mũi hẹp và quai hàm lớn. Tổng chiều dài hộp sọ trung bình của gấu đen trưởng thành tại Virginia, là 262–317 mm.[19] Chiều dài hộp sọ lớn nhất của loài này đã được thông báo là 23,5 tới 35 cm.[6] Đôi mắt nhỏ màu đen hoặc nâu. Đôi tai nhỏ và tròn, ở phía sau trên đầu. Cái mõm dài và nhọn với mũi dài, màu nâu. Con cái có xu hướng có mảnh mai hơn và có khuôn mặt nhọn hơn con đực. Lưỡi và môi có thể chuyển động linh hoạt.
Gấu đen có 42 cái răng thích nghi với một chế độ ăn tạp. Các răng cửa có thể được sử dụng để cắt thịt nhưng thường được sử dụng để cắt cỏ và các thực vật trên sàn rừng. Răng nanh có thể được sử dụng để bắt mồi và làm bị thương đối thủ, nhưng thường được sử dụng để xé các tổ ong, kiến và chỗ cư trú của côn trùng. Các răng hàm rất rộng và bằng phẳng được sử dụng để nghiền các loại hạt và quả hay nhai thức ăn thực vật. Gấu đen ít ăn thịt, do đó chúng không cần răng hàm sắc và có hình cắt kéo giống như các động vật ăn thịt điển hình như chó sói và mèo. Chúng có cơ hàm khỏe với vết cắn rất mạnh mẽ, đặc biệt là của những con đực
Chân sau của gấu đen hơi dài hơn so với chân trước và tương đối dài hơn so với chân sau của gấu ngựa. Các bàn chân của loài này tương đối lớn, với chiều dài chân sau là 13,7-22,5 cm, là lớn hơn so với các loài gấu kích thước trung bình khác, nhưng nhỏ hơn nhiều so với bàn chân gấu nâu trưởng thành lớn và đặc biệt là gấu trắng Bắc cực.[6] Lòng bàn chân có màu đen hoặc nâu, với lớp đệm thịt trần trụi, phủ da và có nếp nhăn sâu. Mỗi bàn chân có năm ngón với móng vuốt không thể thu vào được sử dụng để xé thức ăn, đào bới, cào và trèo cây. Móng vuốt của chúng thường là màu đen hoặc xám. Các móng vuốt ngắn (2–3 cm) và tròn, dày ở phía đáy và thuôn nhọn. Các móng vuốt ở cả hai chân trước và sau gần như là có chiều dài như nhau, mặc dù móng vuốt trước có xu hướng cong nhọn hơn.[3]
Trong tự nhiên gấu đen Mỹ có xu hướng ở trong lãnh thổ và không thích giao du. Hầu hết chúng sống đơn độc, ngoài trừ gấu mẹ đang nuôi con và đàn con nhỏ của mình. Tuy nhiên, khi nguồn thức ăn phong phú (ví dụ khi cá hồi đẻ trứng hoặc ở bãi rác) gấu đen có thể tụ tập và có sự phân cấp thống trị hình thức, với con đực lớn nhất, mạnh nhất thống trị các điểm kiếm ăn hiệu quả nhất.[38] Chúng đánh dấu lãnh thổ của mình bằng cách cọ xát cơ thể vào thân cây và cào lên vỏ cây. Phạm vi hàng năm của gấu đen đực trưởng thành có xu hướng rất lớn nhưng có một số sự thay đổi. Ở Long Island ngoài khơi bờ biển Washington, dao động trung bình 13 km2, trong khi trên bán đảo Ungava ở Canada dao động trung bình có thể lên đến 2.600 km2, với một số con gấu đực di chuyển nhiều đến 11.260 km2 trong thời gian thiếu lương thực
SINH SẢN
Gấu cái thường sinh con lứa đầu tiên ở độ tuổi từ 3-5 năm tuổi.[21] Gấu cái sinh sống tại các khu vực phát triển hơn có xu hướng mang thai ở độ tuổi trẻ hơn.[67] Cả hai giới đều không chung thủy. Con đực cố gắng giao phối với một số con cái, nhưng những con lớn, thống trị chiếm ưu thế mạnh có thể chiếm giữ một con cái nếu một con đực trưởng thành khác đến gần.[19] Con cái có xu hướng nóng giận ngắn với đối tác sau khi giao hợp. Chỉ một mình gấu mẹ nuôi con.
Thời gian giao phối kéo dài 2-3 tháng và thường diễn ra trong giai đoạn tháng Sáu - tháng Bảy mặc dù có thể mở rộng đến tháng Tám trong phạm vi phân bố phía bắc của loài này. Những quả trứng được thụ tinh được giữ chậm phát triển và không được cấy vào trong tử cung của con cái cho đến tháng 11 để tránh sinh con vào mùa thu. Gấu cái sau khi giao phối sẽ cố gắng ăn thật nhiều trong mùa hè và mùa thu để có trọng lượng cao nhất có thể. Nếu trọng lượng gấu cái trên 70 kg trước khi vào hang ngủ đông thì các phôi thai có nhiều cơ hội được cấy vào tử cung và tiếp tục mang thai. Thời kỳ mang thai kéo dài 235 ngày, và lứa con thường được sinh ra trong cuối tháng Giêng đến đầu tháng Hai. Lứa đẻ là từ một đến sáu con gấu con; thường là hai hoặc ba.[2]
THỨC ĂN
Gấu đen thường xuyên leo lên cao để kiếm ăn, trốn thoát khỏi kẻ thù hoặc ngủ đông. Một nửa trong số loài gấu đen có thói quen sống trên cây (các loài có lối sống trên cây nhất, là gấu đen Mỹ, gấu ngựa và gấu chó, có quan hệ khá chặt chẽ)] Khả năng sống trên cây của chúng có xu hướng giảm theo tuổi tác. Gấu đen có thể hoạt động bất cứ lúc nào trong cả ngày lẫn đêm, mặc dù chủ yếu là kiếm ăn vào ban đêm. Gấu đen sống gần nơi cư trú của con người có xu hướng hoạt động về đêm rộng rãi hơn và các con gấu đen sống gần gấu nâu có xu hướng hoạt động nhiều hơn vào ban ngày.[6][19] Gấu đen là loài bơi lội tuyệt vời và mạnh mẽ, chúng xuống nước để giải khuây và để kiếm ăn (chủ yếu là cá).
Nhìn chung, phần lớn gấu đen Mỹ có hoạt động tìm kiếm thức ăn vào lúc hoàng hôn, mặc dù chúng có thể chủ động kiếm ăn bất cứ lúc nào.[38] Ngay khi ra khỏi chế độ ngủ đông, chúng sẽ tìm thức ăn từ xác động vật chết trong mùa đông và động vật móng guốc mới sinh. Gấu đen sống ở các khu vực gần khu dân cư hoặc xung quanh khu vui chơi giải trí của con người, thường đến kiếm thức ăn được cung cấp vô tình từ con người, đặc biệt là trong mùa hè. Chúng bao gồm rác, hạt cho chim ăn, các sản phẩm nông nghiệp và mật ong từ chỗ nuôi ong
Thời gian giao phối kéo dài 2-3 tháng và thường diễn ra trong giai đoạn tháng Sáu - tháng Bảy mặc dù có thể mở rộng đến tháng Tám trong phạm vi phân bố phía bắc của loài này. Những quả trứng được thụ tinh được giữ chậm phát triển và không được cấy vào trong tử cung của con cái cho đến tháng 11 để tránh sinh con vào mùa thu. Gấu cái sau khi giao phối sẽ cố gắng ăn thật nhiều trong mùa hè và mùa thu để có trọng lượng cao nhất có thể. Nếu trọng lượng gấu cái trên 70 kg trước khi vào hang ngủ đông thì các phôi thai có nhiều cơ hội được cấy vào tử cung và tiếp tục mang thai. Thời kỳ mang thai kéo dài 235 ngày, và lứa con thường được sinh ra trong cuối tháng Giêng đến đầu tháng Hai. Lứa đẻ là từ một đến sáu con gấu con; thường là hai hoặc ba.
TUỔI THỌ
Tuổi thọ trung bình trong tự nhiên của gấu đen là 18 năm, mặc dù cá thể hoang dã hoàn toàn có thể tồn tại tới hơn 23 năm. Tuổi kỷ lục của một cá thể hoang dã là 31 năm, trong khi bị giam cầm là 44 năm. Tỷ lệ sống trung bình hàng năm cho những con gấu trưởng thành có thể thay đổi, dao động từ 86% ở Florida đến 73% ở Virginia và Bắc Carolina.[19] Trong vùng Minnesota, theo một nghiên cứu có đến 99% trong số những con gấu trưởng thành có thể sống sót sau chu kỳ ngủ đông.[19] Một nghiên cứu đáng chú ý về gấu đen ở Nevada cho thấy rằng số lượng tử vong hàng năm của quần thể gấu đen trong khu vực hoang dã là 0%, trong khi ở khu vực phát triển trong bang này con số này đã tăng lên 83%.[6] Sự sống còn của các con gấu chưa trưởng thành thường ít được đảm bảo. Ở Alaska, theo một nghiên cứu chỉ có 14-17% con đực và 30-48% con cái chưa trưởng thành tồn tại đến tuổi trưởng thành.[19] Trên khắp phạm vi phân bố, tỷ lệ gấu con sống sót qua năm đầu tiên ước tính là 60%.
Không có nhận xét nào
Đăng nhận xét